Lịch sử Nhiên liệu năng lượng cao

Những nghiên cứu về loại nhiên liệu Zip đã được bắt đầu từ những nghiên cứu của Lục quân Mỹ trong dự án HERMES vào cuối những năm 1940, Hải quân Mỹ cũng có dự án nghiên cứu mang tên Project Zip vào năm 1952,[3] trong khi Không quân Mỹ có Project HEF (High Energy Fuels) vào năm 1955.[7] Trong những năm 1950s, nhiên liệu Zip được dự đoán sẽ là bước tiến quan trọng tiếp theo trong ngành hàng không.

Không quân Mỹ chủ yếu tập trung vào loại nhiên liệu dựa trên HEF-3, HEF được kỳ vọng sẽ trở thành loại nhiên liệu được sử dụng trên máy bay mới phát triển có thể đạt tốc độ lên tới Mach 2 để thay thế B-52 Stratofortress. Các thiết kế ban đầu của BoeingNorth American Aviation (NAA) đều sử dụng các loại nhiên liệu truyền thống trong giai đoạn bay cất cánh và bay hành trình, và sẽ chuyển sang sử dụng HEF khi cần tốc độ lớn, sử dụng chế độ đốt sau.[8] Bằng cách này nhược điểm của nhiên liệu HEF là vấn đề tích tụ trên tuabin đã được loại bỏ, và vì chế độ đốt sau chỉ được sử dụng để cất cánh và bay tốc độ cao, các vấn đề về khí thải độc hại đã giảm đáng kể.

Do các thiết kế tỏ ra quá đắt đỏ trong khi hiệu suất không được cải thiện tương xứng, cả hai hãng chế tạo máy bay đã đưa ra bản thiết kế mới có thể bay ở tốc độ siêu âm ở trong phần lớn các nhiệm vụ chiến đấu. Những thiết kế này sử dụng các động cơ mới được thiết kế để duy trì chuyến bay tốc độ cao, với chiếc B-70 Valkyrie và động cơ General Electric J93 đang ở giai đoạn thử nghiệm. Trong những trường hợp này, nhiên liệu được đốt trong chế độ đốt sau trong thời gian dài hơn, tối đa hóa hiệu suất của nhiên liệu HEF. Ngoài ra người ta còn dự kiến giới thiệu một phiên bản mới hơn của động cơ J93, sẽ đốt nhiên liệu HEF-4 xuyên suốt thời gian bay. Trong khi đó, cũng có những nghiên cứu sử dụng nhiên liệu HEF-3 trên động cơ ramjet của tên lửa CIM-10 BOMARC,[9] cũng như các nghiên cứu để sử dụng trên máy bay trên tàu sân bay thế hệ mới, tuy nhiên cả hai dự án này đều bị hủy bỏ.

Không quân Mỹ hủy bỏ các chương trình nghiên cứu về nhiên liệu Zip kể từ 1959. Tính đến thời điểm này, thiết kế duy nhất vẫn còn được xem xét để sử dụng nhiên liệu Zip là thiết kế máy bay XB-70 cùng với động cơ J93 của nó. NAA và General Electric đã thiết kế lại động cơ mới để có thể sử dụng nhiên liệu mới JP-6 có mật độ cao hơn, và thay một trong hai khoang chứa bom bằng thùng chứa loại nhiên liệu mới này. Tuy nhiên tầm bay của máy bay đã giảm từ 7.700 hải lý (14.260 km) xuống còn 5.500 hải lý (10.190 km).[4] Điều này làm giảm khả năng tấn công mục tiêu ở tầm xa và máy bay cần phải được tiếp nhiên liệu trên không. Điều này khiến cho XB-70 chỉ dừng lại với vai trò là máy bay thử nghiệm và không được đưa vào trang bị.

Có ước tính rằng Mỹ đã dành nguồn ngân sách 1 tỉ đô la cho chương trình, theo tỉ giá năm 2001.[7] Có ít nhất năm nhà máy sản xuất nhiên liệu HEF đã được xây dựng ở Hoa Kỳ, và hai công nhân đã thiệt mạng trong một vụ nổ phá hủy một nhà máy ở New York.[7][10] Các chương trình nghiên cứu nhiên liệu này được xếp vào loại tuyệt mật, tuy nhiên nó đã được đưa tin rộng rãi trên cả báo chí thương mại và báo chí dân sự.[11] Cả Mỹ và Liên Xô đã giải mật độc lập các nghiên cứu của mình vào năm 1964.

Một địa điểm có khả năng nằm trong chương trình HEF là một sân bay bỏ hoang nằm bên ngoài Boron, California. Được đánh dấu trên bản đồ địa hình của USGS là "Nhà máy Không quân # 72", nơi đây không có gì ngoài đường băng và bể chứa nước. Người ta suy đoán rằng đây sẽ là một nhà máy sản xuất nhiên liệu HEF, sử dụng các mỏ hàn the lớn gần đó (tên thị trấn được đặt theo tên mỏ), từ đây nhiên liệu có thể dễ dàng được vận chuyển đến Căn cứ Không quân Edwards.[4]